Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung

Chủ nhật 21/11/2010 | 16:36:43

Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 18/1/1950. Sự kiện trọng đại này đã đưa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển mới. 

Đặc biệt, kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Trung Quốc phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.

Đến nay, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp định ở cấp Chính phủ và các văn kiện hợp tác khác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai nước.

Hai bên đã khai thông đường hàng không, đường biển, đường bộ, đường sắt, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu hàng hóa và hành khách giữa hai nước.

Trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (tháng 2/1999), lãnh đạo cấp cao hai nước đã xác định phương châm 16 chữ thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai."

Trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức Lương (tháng 12/2000), hai bên đã ký Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, cụ thể hóa phương châm 16 chữ thành những biện pháp cụ thể phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực.

Hai bên cũng thỏa thuận đưa hai nước trở thành: "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.” Đặc biệt, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên nhất trí phát triển quan hệ hai nước trở thành “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc” theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt.

Hai bên đã thành lập Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc (tháng 11/2006) và đã tiến hành hai phiên họp, phiên thứ nhất họp tại Hà Nội (tháng 11/2006); phiên thứ hai họp tại Bắc Kinh (tháng 1/2008).

Quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư

Quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước đã có bước đột phá. Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc luôn là bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam.

Việt Nam là nước nhập siêu nhiều nhất của Trung Quốc, đặc biệt trong vài năm gần đây. Năm 2005, tổng kim ngạch thương mại hai nước đạt 8,19 tỷ USD (trong đó, Việt Nam xuất khẩu 2,55 tỷ USD, nhập khẩu 5,64 tỷ USD);

Năm 2006, đạt 10,42 tỷ USD (trong đó Việt Nam xuất khẩu 3,03 tỷ USD, nhập khẩu 7,39 tỷ USD); Năm 2007, đạt 15,85 tỷ USD, hoàn thành trước 3 năm mục tiêu kim ngạch 15 tỷ USD năm 2010 (trong đó xuất khẩu Việt Nam đạt 3,35 tỷ USD, nhập khẩu đạt 12,5 tỷ USD).

Trong năm 2009, mặc dù thương mại song phương chịu ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, song kim ngạch thương mại giữa hai nước vẫn gia tăng. Tính đến tháng 11/-2009, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 18,4 tỷ USD, tăng 5,1%.

Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất công nghiệp như xăng dầu, hóa chất, phân bón, vải và nguyên phụ liệu dệt may, sắt thép, máy móc thiết bị và phụ tùng, các sản phẩm mà Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất.

Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc là dầu thô, than đá, caosu, thủy hải sản, nông sản…

Tháng 11/2006, hai bên đã ký Bản ghi nhớ về “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt-Trung” và đã thành lập Nhóm công tác trong khuôn khổ ủy ban hợp tác kinh tế thương mại Việt- Trung.

 Để thúc đẩy hơn nữa công tác xuất nhập khẩu, tháng 5/2008, hai bên đã ký kết Hiệp định kiểm dịch động vật và Hiệp định kiểm dịch thực vật.

Hai bên đã tiến hành họp phiên thứ 6 ủy ban hợp tác kinh tế thương mại Việt- Trung (tháng 6/2008).

Quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai nước có bước phát triển mới, nhiều tập đoàn lớn của Trung Quốc đã tham gia đầu tư vào Việt Nam.

Tính đến hết tháng 8/2009, Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 655 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 2 tỷ 233 triệu USD, đứng thứ 15/88 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.

Trong những năm qua, Trung Quốc cũng đã không ngừng tăng quy mô tín dụng ưu đãi dành cho Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai một số dự án hợp tác kinh tế lớn...

Hai bên cũng nhất trí tăng cường thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác, tăng cường hợp tác trong các dự án trong khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai kinh tế" và các dự án lớn khác.

Về ODA: Tổng giá trị ODA của Trung Quốc dành cho Việt Nam khoảng trên 300 triệu USD, phần lớn đang trong quá trình thực hiện.

Về vốn vay ưu đãi: Trong những năm qua, Trung Quốc đã không ngừng tăng quy mô tín dụng ưu đãi dành cho Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai một số dự án hợp tác kinh tế lớn như Dự án xây dựng Nhà máy Khai thác và Tuyển luyện Đồng tại Sin Quyền; cải tạo, nâng cấp Nhà máy Gang thép Thái Nguyên; Nhà máy Phân đạm Hà Bắc; Nhà máy Nhiệt điện Quảng Ninh I, II; Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng I, II; Dự án thông tin tín hiệu đường sắt các tuyến Hà Nội-Đồng Đăng, Hà Nội-Thái Nguyên, Hà Nội-Lào Cai và khu đầu mối Hà Nội; Dự án hiện đại hoá hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt đoạn Vinh-thành phố Hồ Chí Minh; Dự án viễn thông nông thôn; Dự án đường sắt đô thị tuyến Hà Nội-Hà Đông v.v…

Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế-xã hội ở Trung Quốc; trao đổi thanh thiếu niên; đầu tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam; xây dựng khu nhà ở Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và Cung Hữu nghị Việt- Trung.

Quan hệ hợp tác giáo dục, văn hóa, thể thao và du lịch

Trong những năm qua, quan hệ trao đổi, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hóa-thể thao được đẩy mạnh. Hàng năm, Trung Quốc cung cấp và duy trì số lượng 130 học bổng dài hạn và 10 học bổng thực tập sinh ngắn hạn cho Việt Nam.

Trong 3 năm qua, số lượng lưu học sinh Việt Nam sang du học ở Trung Quốc tăng nhanh. Hiện có khoảng 12.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tại các trường đại học ở Trung Quốc. Phía Trung Quốc hiện có khoảng trên 2000 sinh viên đang du học tại Việt Nam.

Hai bên đã thực hiện tốt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Văn hóa năm 1007-2009 giữa hai Chính phủ và phối hợp hoạt động trong khuôn khổ ASEAN+Trung Quốc.

Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn biểu diễn nghệ thuật, tổ chức nhiều cuộc giao lưu văn hóa, thể thao, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Về hợp tác du lịch: Trung Quốc là thị trường nguồn du lịch lớn của Việt Nam. Trong 8 tháng đầu năm 2009 đã có hơn 301 ngàn lượt khách Trung Quốc sang du lịch tại Việt Nam. Trung Quốc có hơn 47 dự án với tổng số vốn đăng ký 650 triệu USD đầu tư trong lĩnh vực lữ hành, khách sạn, nhà hàng, sân golf...

Hợp tác y tế, khoa học-công nghệ

Hai bên tiếp tục trao đổi các chuyến thăm của cấp Bộ và các đoàn tham quan học tập kinh nghiệm, chưa có các dự án cụ thể. Năm 1992, hai bên ký Hiệp định kiểm dịch y tế biên giới. Năm 2004, hai bên ký Nghị định thư bổ sung. Đến nay, có 35 Công ty Trung Quốc - đứng thứ 3 trong số các nước có doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực dược tại Việt Nam.

Về khoa học- công nghệ: hai bên đã ký Hiệp định hợp tác khoa học và kỹ thuật (tháng 12/1992), đã thành lập ủy ban hỗn hợp hợp tác khoa học công nghệ cấp Chính phủ để trao đổi, xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án hợp tác cụ thể.

Các lĩnh vực hợp tác chính là nông, lâm, thủy sản, y dược, tiêu chuẩn đo lường và chất lượng, sở hữu trí tuệ, thông tin khoa học và công nghệ cao, đào tạo cán bộ… Nhìn chung đạt nhiều kết quả thiết thực và ngày càng được mở rộng.

Vấn đề biên giới lãnh thổ

Sau khi bình thường hóa quan hệ, năm 1993, hai bên đã ký Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên cũng đã tiến hành đàm phán về 3 vấn đề: biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên biển (Biển Đông).

Đến nay, hai bên đã ký Hiệp định về biên giới trên đất liền (năm 1999); Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (năm 2000); Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (năm 2000); Nghị định thư hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (năm 2004).

Đặc biệt với sự nỗ lực của hai bên, công tác phân giới trên bộ đã hoàn thành vào ngày 31/12/2008.

Các Nghị định thư phân giới cắm mốc và Hiệp định quy chế quản lý biên giới mới cũng đã được ký kết, tạo thuận lợi để xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị lâu dài giữa hai nước.

Bước vào năm 2010 - "Năm Hữu nghị Việt-Trung.", cùng với việc kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Trung, nhân dân hai nước hy vọng đây là năm có nhiều biến chuyển theo hướng tốt đẹp hơn nữa trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vì lợi ích lâu dài của hai nước, vì tình hữu nghị của hai dân tộc./.