Cộng hòa Philippines

Cộng hòa Philippines

Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam-Philippines

Thứ sáu 26/11/2010 | 13:37:45

Quan hệ Việt Nam-Philippines đang phát triển tốt đẹp trên hầu hết các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, thương mại-đầu tư, khoa học-kỹ thuật, an ninh-quốc phòng, nông nghiệp, thủy hải sản…

Quan hệ chính trị-ngoại giao

Việt Nam và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12/7/1976.

Hợp tác kinh tế-thương mại

Về thương mại, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Philippines tăng đều trong những năm qua. Năm 2000 đạt 541 triệu USD; năm 2001 đạt 370 triệu USD; năm 2002 đạt 265 triệu USD; năm 2003 đạt trên 450 triệu USD; năm 2004 đạt 690 triệu USD; năm 2005 đạt hơn 1 tỷ USD; năm 2006 đạt gần 1,2 tỷ USD; năm 2007 đạt gần 1,4 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 2,2 tỷ USD (vượt trước mục tiêu đạt 2 tỷ USD cho năm 2010); năm 2009 đạt gần 2 tỷ USD (giảm 11,5% so với năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng); trong 8 tháng đầu năm 2010 đạt hơn 1,8 tỷ USD (tăng 27,3%).

Việt Nam xuất sang Philippines chủ yếu là gạo, linh kiện điện tử và hàng nông sản và nhập khẩu từ Philippines chủ yếu là phân bón, máy móc thiết bị phụ tùng, khoáng chất, khí hóa lỏng, xăng dầu, dược phẩm, vật liệu xây dựng...

Gạo là mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang Philippines trong nhiều năm qua, chiếm 60-70% kim ngạch xuất khẩu. Trung bình Việt Nam xuất khẩu từ 1,5-1,7 triệu tấn/năm cho Philippines (năm 2005 gần 1,7 triệu tấn, năm 2006: 1,53 triệu tấn, năm 2007: 1,5 triệu tấn, năm 2008: khoảng 1,7 triệu tấn, năm 2009: 1,6 triệu tấn, và năm 2010 sẽ xuất 1,7 triệu tấn).

Về đầu tư, Philippines đầu tư vào Việt Nam còn khiêm tốn. Tính đến tháng 8/2010, Philippines có 49 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư là 274,8 triệu USD.

Hiện Việt Nam chưa có dự án đầu tư nào tại Philippines.

Hợp tác nông-ngư nghiệp

Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Viện nghiên cứu lúa quốc tế ở Philippines (IRRI) được thiết lập từ năm 1968. Hiện có khoảng 60-70% diện tích trồng lúa ở Việt Nam đang áp dụng những tiến bộ kỹ thuật về canh tác lúa và các giống lúa mang nguồn gốc IRRI.

Hai bên vừa ký MOU về hợp tác nghề cá (tháng 6/2010) để triển khai các hợp tác cụ thể trong lĩnh vực thủy sản.

Hợp tác giáo dục

Đây là lĩnh vực rất tiềm năng giữa hai nước. Hiện có khoảng 500 sinh viên Việt Nam đang học đại học, thạc sĩ, tiến sĩ bằng học bổng hoặc từ nhiều nguồn khác nhau tại Philippines và con số này đang tăng nhanh.

Hợp tác biển

Đây là một trong những trụ cột chính trong quan hệ hợp tác giữa hai nước và được lãnh đạo hai nước đánh giá cao. Trong những năm qua, hợp tác biển giữa Việt Nam và Philippines không ngừng được củng cố và mở rộng trên nhiều lĩnh vực như nghiên cứu khoa học biển (JOMSRE), thăm dò địa chấn chung (JMSU), hợp tác hải quân, tìm kiếm cứu nạn, ứng phó sự cố tràn dầu, thủy sản, khí tượng thủy văn biển, phối hợp lập trường trên các diễn đàn quốc tế và khu vực…

Một số văn kiện hợp tác quan trọng giữa hai nước

- Hiệp định hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật (tháng 1/1978);

- Hiệp định thương mại (tháng 1/1978);

- Hiệp định vận chuyển hàng không (tháng 11/1988);

- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (tháng 2/1992);

- Hiệp định vận tải hàng hải (tháng 2/1992);

- Hịêp định thành lập Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế-khoa học kỹ thuật và thương mại Việt Nam-Philippines (tháng 2/1992);

- Hiệp định hợp tác văn hoá (tháng 3/1994);

- Hiệp định hợp tác du lịch (tháng 3/1994);

- Bản ghi nhớ về các nguyên tắc hồi hương người Việt Nam không phải tỵ nạn ở Philippines (tháng 2/1995);

- Bản ghi nhớ về việc ký lại Hiệp định thương mại mới (tháng 11/1995);

- Tuyên bố chung về nguyên tắc 9 điểm giải quyết tranh chấp ở Biển Đông (tháng 11/1995);

- Hiệp định hợp tác khoa học và kỹ thuật (tháng 4/1996);

- Biên bản ghi nhớ về nghiên cứu chung về biển (tháng 4/1996);

- Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ về phòng và chống các tội phạm hình sự (tháng 12/1998);

- Thỏa thuận về hợp tác nông nghiệp (tháng 10/1999);

- Hiệp định tránh đánh thuế trùng (tháng 11/2001);

- Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ 21 và thời kỳ tiếp theo (tháng 11/2002);

- Bản ghi nhớ về hợp tác thể dục thể thao (tháng 12/2002);

- Hiệp định ba bên Trung Quốc-Philippines-Việt Nam về thỏa thuận thăm dò địa chấn trên biển trong Khu vực thỏa thuận tại Biển Đông (tháng 3/2005);

- Nghị định thư về hợp tác văn hóa (tháng 8/2007);

- Bản thỏa thuận về hợp tác xúc tiến thương mại (tháng 8/2007);

- Chương trình hành động giai đoạn 2007-2010 (tháng 8/2007);

- Biên bản ghi nhớ về hợp tác nghề cá (tháng 6/2010)./.