Liên bang Malaysia

Liên bang Malaysia

Việt Nam-Malaysia: Quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp

Chủ nhật 21/11/2010 | 00:00:00

Ngày 30/3/1973, Việt Nam và Malaysia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Năm 1976, Việt Nam và Malaysia lập Đại sứ quán ở thủ đô mỗi nước.

Quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Malaysia đang phát triển tốt đẹp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, giáo dục, du lịch…

Tháng 2/1994, Hội Hữu nghị Việt Nam-Malaysia và Malaysia-Việt Nam đã được thành lập ở mỗi nước. 

Tháng 9/1995, hai nước đã lập Ủy ban hỗn hợp Việt Nam-Malaysia. Ủy ban hỗn hợp đã họp được bốn phiên. Phiên thứ nhất họp tại Kuala Lumpur (tháng 9/1995); Phiên thứ hai họp tại Hà Nội (tháng 10/1996); Phiên thứ ba họp tại Kuala Lumpur (tháng 3/2002); Phiên thứ tư họp tại Hà Nội (tháng 3/2006). 

Quan hệ Kinh tế-thương mại-đầu tư

Về hợp tác thương mại: Hiện Malaysia là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam trong các nước ASEAN và đứng thứ 9 trên thế giới. 

Kim ngạch thương mại giữa hai nước năm 2007 đạt 3,7 tỷ USD, năm 2008 đạt 4,551 tỷ USD.

Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Malaysia chủ yếu là dầu thô (43-45%), gạo (15%), thủy sản…

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Malaysia sang Việt Nam là Xxng dầu, linh kiện điện tử, máy tính, thiết bị phụ tùng, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép, phân bón…

Đặc biệt từ năm 1988 đến nay, Malaysia tăng cường nhập khẩu gạo của Việt Nam và trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn và khá ổn định của Việt Nam. Trung bình mỗi năm Malaysia nhập khẩu của Việt Nam từ 15.000-25.000 tấn gạo.

Về đầu tư: Hiện Malaysia là nhà đầu tư lớn nhất trong các nước ASEAN và đứng thứ 2 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 302 dự án, trị giá khoảng 17,79 tỷ USD.

Nổi bật là dự án đầu tư của Tập đoàn Berjaya Land với dự án Trung tâm Thương mại Tài chính quận 10 ở Thành phố Hồ Chí Minh, trị giá 930 triệu USD và gần đây nhất là dự án thép của Tập đoàn Lion với số vốn đăng ký đạt 9,8 tỷ USD.

Hợp tác du lịch

Việt Nam và Malaysia đã ký Hiệp định Hợp tác Du lịch cấp Chính phủ ngày 13/4/1993. Du khách Malaysia đến Việt Nam liên tục tăng đều trong những năm qua. Năm 2006 là 105.558 lượt, năm 2007 là 153.507 lượt, năm 2008 là 174.008 lượt.

Để tăng cường hợp tác du lịch, hai nước đã miễn thị thực cho công dân mang hộ chiếu phổ thông.

Quan hệ hợp tác về văn hóa-giáo dục-thể dục thể thao-lao động

Hai nước tiến hành trao đổi các đoàn nghệ thuật biểu diễn nhân các dịp lễ của hai nước và trao đổi các đoàn cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực thư viện và di sản văn hóa.

Hai nước ký Bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác giáo dục trong chuyến thăm chính thức Malaysia của Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 4/2004). Hàng năm, Malaysia đã cấp học bổng đại học và cao học cho sinh viên Việt Nam. Tổng số học bổng tính đến năm 2007 là 74 suất (bao gồm học bổng Chính phủ và học bổng do các tập đoàn kinh tế lớn của Malaysia như Petronas cấp).

Bên cạnh đó, theo Chương trình hợp tác thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước ASEAN, Malaysia dành cho Việt Nam khoảng 20-30 học bổng ngắn hạn mỗi năm. Tính đến nay có khoảng hơn 300 lưu học sinh đang học tâp và nghiên cứu tại Malaysia.

Về thể dục-thể thao: Việt Nam và Malaysia là các nước thành viên của Liên đoàn Thể thao Đông Nam á. Hai bên có quan hệ hợp tác chặt chẽ trên tất cả các lĩnh vực về thể dục thể thao như trao đổi đoàn, thi đấu, tập huấn, trao đổi chuyên viên, huấn luyện viện, vận động viên, tham gia các khóa đào tạo, tham dự hội nghị về thể dục thể thao được tổ chức ở mỗi nước.

Về lao động: Hiện có khoảng 110.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia.

Các hiệp định đã ký kết giữa hai bên

 - Hiệp định về các chuyến bay giữa và qua lãnh thổ hai nước (ngày15/10/1978);

- Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư (ngày 21/1/1992); 

- Hiệp định Hàng hải (ngày 31/3/1992);  

- Hiệp định về Hợp tác Kinh tế, Khoa học và Kỹ thuật (ngày 20/4/1992); 

- Hiệp định Hợp tác Bưu điện và Viễn thông (ngày 20/4/1992);  

- Hiệp định Thương mại (ngày 11/8/1992); 

- Hiệp định Thanh toán Song phương giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Quốc gia của Malaysia (tháng 3/1993); 

- Hiệp định Hợp tác Khoa học, Công nghệ về Môi trường (tháng 12/1993);  

- Hiệp định về Hợp tác Du lịch (ngày 13/4/1994); 

- Hiệp định Hợp tác Văn hoá (tháng 4/1995); 

- Hiệp định tránh đánh thuế song trùng (ngày 7/9/1995); 

- Hiệp định Hợp tác Thanh niên và Thể thao (ngày 14/6/1996); 

- Hiệp định về Miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông (25/9/2001);

- Tuyên bố chung về Khuôn khổ Hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21 giữa Việt Nam và Malaysia (ngày 22/4/2004); 

Ngoài ra còn có một số bản ghi nhớ (MOU):

 - Bản Ghi nhớ (MOU) về việc Malaysia viện trợ cho Việt Nam 1,72 triệu Ringit (RM) (700.000 USD) để phát triển ngành caosu (năm 1992);

- MOU về thăm dò khai thác dầu khí ở những vùng chồng lấn giữa hai nước (tháng 6/1992); 

- MOU về hồi hương người tị nạn (ngày 24/1/1995);

- MOU về hợp tác thông tin (ngày 4/7/1995);  

- MOU về lập Uỷ ban Hỗn hợp hai nước (tháng 9/-1995);  

- MOU về Tuyển dụng lao động Việt Nam (tháng 12/2003);  

- MOU về Hợp tác giáo dục (tháng 4/2004);  

- MOU về Hợp tác Thông tin và Viễn thông (tháng 8/2008);

- MOU về hợp tác quốc phòng (tháng 8/2008)./.