Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam-Bỉ
Thứ hai 06/12/2010 | 15:49:13
Việt Nam và Bỉ thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 22/3/1973 và từ đó, mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước luôn được củng cố và phát triển tốt đẹp.
Quan hệ chính trị-ngoại giao
Việt Nam và Bỉ thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 22/3/1973. Bỉ mở sứ quán tại Hà Nội tháng 11/1975. Tháng 6/1976, Bỉ cử Đại sứ thường trú tại Hà Nội và có Lãnh sự danh dự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Việt Nam mở Đại sứ quán tại Bruselles tháng 1/1991, đến tháng 3/2005, Việt Nam khai trương văn phòng Lãnh sự danh dự tại tỉnh Anvers.
Quan hệ kinh tế-thương mại
Việt Nam là nước châu Á duy nhất còn được nhận hỗ trợ phát triển của Chính phủ Bỉ. Quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Vương quốc Bỉ được thực hiện qua rất nhiều nguồn.
Ngoài quan hệ hợp tác chính thức với Chính phủ Liên bang, Việt Nam cũng đang nhận được viện trợ không hoàn lại của các cộng đồng, các vùng của Bỉ (vùng Wallonie, vùng thủ đô Brussels và cộng đồng nói tiếng Pháp của Bỉ, vùng Flandre và Cộng đồng nói tiếng Hà Lan) và các tổ chức Bỉ như Văn phòng Hợp tác phát triển và hỗ trợ kỹ thuật vùng Flandre (VVOB), Hội đồng liên trường đại học vùng Flandre (VLIR), Tổ chức khuyến học và đào tạo tại nước ngoài (APEFE), các tổ chức phi chính phủ (NGOs)...
Theo tính toán, từ năm 1977 đến nay, Bỉ đã cho Việt Nam vay và viện trợ không hoàn lại gần 300 triệu USD (trong đó viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 60%).
Các lĩnh vực hợp tác chủ yếu là phát triển nông thôn-nông nghiệp, giáo dục đào tạo, y tế, môi trường. Viện trợ của Bỉ cho Việt Nam giai đoạn 2007-2010 trị giá 37,5 triệu euro, ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực, quản lý nguồn nước, bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện sức khoẻ và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các dự án hợp tác do Bỉ tài trợ có quy mô vừa phải, phù hợp với khả năng tiếp nhận của các địa phương và tương đối hiệu quả, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và tăng cường năng lực tại các điạ phương và lĩnh vực có dự án.
Đầu tư
Việt Nam và Bỉ ký Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 24/1/1991. Bỉ có nhiều thế mạnh về luyện kim, hóa chất, lọc dầu, cảng biển… Tuy nhiên, quan hệ đầu tư khá khiêm tốn.
Hiện Bỉ có 32 dự án với tổng số vốn đầu tư là 77,548 triệu USD, đứng thứ 34/81 nước và vùng lãnh thổ có FDI vào Việt Nam. Vốn đầu tư thực hiện 61 triệu USD.
FDI của Bỉ chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp (58% số dự án và 71,6% tổng vốn đầu tư của Bỉ). Các dự án chủ yếu là 100% vốn với quy mô tương đối nhỏ (trung bình 2,7 triệu USD/dự án so với mức trung bình cả nước là 10,5 triệu USD/dự án).
Hiện Bỉ có các dự án có vốn đầu tư trên 10 triệu USD là Chè Phú Bền 13 triệu USD của 2 công ty Sea holding và SA Sipef; Cấp nước Đình Vũ (19 triệu USD của Việt kiều đầu tư tại Bình Thuận).
Về đầu tư của Việt Nam sang Bỉ, hiện Việt Nam mới có 1 dự án là Trung tâm xúc tiến thương mại tại Brussels có tổng vốn là 153.000 USD.
Về thương mại
Năm 2008, Bỉ là thị trường xuất khẩu có tiềm năng của Việt Nam tại khu vực EU. Xuất khẩu của Việt Nam vào Bỉ tăng khá nhanh trong mấy năm vừa qua, đã vượt Italy và Pháp, trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam trong các nước EU (sau Đức, Anh và Hà Lan).
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Vương quốc Bỉ trong năm 2008 đạt 1,369 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam là 1,019 tỷ USD.
Năm 2009, dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu, tổng kim ngạch 11 tháng đầu năm đạt 986 triệu USD (Việt Nam xuất khẩu 748 triệu USD).
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới là giầy dép; hàng dệt may; hàng hải sản; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù; càphê.
Việt Nam nhập khẩu từ Bỉ chủ yếu là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, sắt thép các loại, sản phẩm hóa chất, tân dược, chất dẻo nguyên liệu, hóa chất, thức ăn gia súc.
Công tác xúc tiến thương mại giữa hai nước được hai bên quan tâm và phát triển cả về số lượng đoàn tham gia và các lĩnh vực trao đổi.
Quan hệ giữa các tổ chức kinh tế trung ương, địa phương, ngành của Việt Nam với 3 vùng Wallonie-Flandre-Brussels Capital ngày càng chặt chẽ.
Hợp tác khoa học-kỹ thuật Tháng 9/2002, Việt Nam và Chính phủ Liên bang của Bỉ ký Hiệp định hợp tác Khoa học, công nghệ. Kỳ họp thứ 3 UBHH Việt-Bỉ về khoa học công nghệ đã diễn ra 2/3/2009.
Hợp tác giáo dục-đào tạo
Hợp tác theo đường Chính phủ liên bang, 2 dự án là Hỗ trợ học từ xa và dự án Đào tạo giáo viên các trường THSP 7 tỉnh miền núi phía Bắc. Số lượng sinh viên nhận học bổng của Bỉ ngày càng tăng, nhất là trong các lĩnh vực Bỉ có thế mạnh như cầu cảng, môi trường, du lịch…
Hợp tác với cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp, các dự án về ngôn ngữ, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực, tập trung ở nhiều trường đại học.
Ngoài ra còn có hợp tác giữa các trường đại học hai nước với nhau. Từ năm 2002, Chính phủ Bỉ đã khôi phục lại chương trình cấp học bổng đào tạo sau đại học cho Việt Nam. Hiện nay trung bình mỗi năm Bỉ cấp 40 suất học bổng đào tạo sau đại học tại Bỉ và 50 suất đào tạo thạc sỹ tại Việt Nam và Thái Lan.
Bỉ còn tài trợ thêm 18.000 USD/năm cho một số sinh viên làm thạc sỹ trong nước.
Hợp tác văn hóa
Bỉ và Việt Nam thường xuyên trao đổi các đoàn nghệ thuật, tổ chức triển lãm, tuần lễ phim. Tháng 9/2001, Việt Nam đã tổ chức thành công tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Bỉ.
Từ tháng 9/2003 đã diễn ra cuộc triển lãm "Việt Nam - quá khứ và đương đại" (bảo tàng Bỉ mượn hiện vật của Việt Nam, kéo dài 6 tháng).
Tháng 9/2006, Những ngày văn hóa Việt Nam tại Bỉ đã được tổ chức chu đáo, trọng thể rất nhiều hoạt động văn hóa, thương mại quảng bá cho Việt Nam.
Hợp tác quốc phòng
Hợp tác quốc phòng giữa hai nước diễn ra trên các lĩnh vực xử lý bom mìn, quân y, khoa học kỹ thuật quân sự, trao đổi và đào tạo học viên quân sự.
Hai bên đã ký Thỏa thuận khung về mối quan hệ và hợp tác giữa hai Bộ Quốc phòng (trao đổi các đoàn quân sự, trao đổi thông tin liên quan đến chính sách quốc phòng, giúp đào tạo, huấn luyện quân sự và thể thao quân sự, hợp tác quân y.
Việt Nam đã cử tùy viên quân sự tại Pháp kiêm nhiệm Bỉ và Bỉ cũng đã có tùy viên quân sự tại Việt Nam.
Các hiệp định đã ký
- Hiệp định khung hợp tác kinh tế, công nghiệp và kỹ thuật (10/77);
- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1/91);
- Hiệp định tránh đánh thuế trùng (2/96);
- Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật (9/2002);
- Hiệp định xoá nợ đợt I (10/92);
- Hiệp định xoá nợ đợt II (9/93);
- Hiệp định xoá nợ đợt III (12/2000);
- Hiệp định về con nuôi (3/2005);
- Bản ghi nhớ về các vấn đề di cư (1/2009)./.